Posted: 16/10/2013       
               
Từ Khanh
Chaungtra! Ngôi làng nhỏ thuộc bang Himachal Pradesh cực bắc Ấn Độ, một chỗ định cư của người tỵ nạn Tây Tạng.
Tôi không biết làng này. Chưa nghĩ có ngày sẽ ở lại vài hôm để không làm gì cả, ngồi đồng, nhìn núi, mây, tường vôi, đồng cỏ.
Từ khu ổ chuột Majnu Ka Tilla dành cho người tỵ nạn Tây Tạng ở thủ đô  Delhi, tôi bắt xe đò đi Dharamsala cũng thuộc bang Himachal Pradesh. Lý  thuyết là 12 tiếng, nhưng chạy gần 15 tiếng mới tới vùng Upper  Dharamsala, quận lỵ cao gần 2000 mét dành cho đức Dalai Lama và con dân  mất nước của ngài. Xe chạy trong đêm không thấy gì ngoài những cú lắc  quành trên đèo, và bóng xe in trong ánh trăng trắng nhạt thủi thủi bò  trên đường núi ngoằn ngoèo chật hẹp.
Rồi tôi lại được chở ngược xuống những đoạn đèo hun hút. Dưới sâu, dòng suối miên man bẻ lượn vỗ trắng xóa trên những tảng đá trắng. Thêm ba tiếng nữa trong sáng muộn nhưng sương vẫn vu vơ đây trời và giăng ngập thung lũng, đến một nơi tên là Chaungtra.
Rồi tôi lại được chở ngược xuống những đoạn đèo hun hút. Dưới sâu, dòng suối miên man bẻ lượn vỗ trắng xóa trên những tảng đá trắng. Thêm ba tiếng nữa trong sáng muộn nhưng sương vẫn vu vơ đây trời và giăng ngập thung lũng, đến một nơi tên là Chaungtra.
Anh họa sĩ Tây Tạng Urgyen đứng đón ở phòng triển lãm của anh, lẫn  trong những bức thangka và các nghệ nhân Tây Tạng đang cặm cụi thêu các  đường nét trên lụa bằng lông ngựa. Urgyen bảo tháng 8 trời mưa ít người  đến, chúng ta mặc sức đi khám phá đời sống tỵ nạn, những tu viện bề thế  (và nguy nga), và một căn phòng rất đặc biệt dành cho tôi muốn ở bao lâu  cũng được.
Urgyen sinh trưởng ở miền đông bắc Tây Tạng. Anh xuất gia được năm  năm nhưng rồi phải cởi chiếc áo hoại sắc vì chế độ. Anh tiễn mẹ lên một  ngọn núi rất dốc để bà tịnh tu trên đó, người cha đã mất, chẳng còn gì.  Rồi anh vượt Hi Mã Lạp Sơn đến Ấn năm 1999. Được định cư ở Dharamlasa,  anh học nghệ thuật thangka trong năm năm, mở phòng tranh và dần nổi  tiếng. Một số bức tranh của Urgyen được đức Đạt Lai Lạt Ma ký tên ngài.  Trong một lần đi Nepal triển lãm, anh gặp Star, cô y tá người Úc qua làm  thiện nguyện ở các trại tỵ nạn Tây Tạng. Họ cùng về Chaungtra làm đám  cưới trong một ngôi chùa nhỏ.
Bây giờ, Star ở luôn Chuangtra, bỏ nghề y tá, học đan thiêu và mỹ thuật Nepal để làm những món quà lưu niệm kiếm sống.
Không hiểu bằng cách nào Star đã hòa nhập và hạnh phúc trong một ngôi  làng hẻo lánh có vài trăm người, ngoài bìa làng là cộng đồng Ấn chẳng  mấy thân thiện. Xung quanh là núi, mây, chùa, những con chó chạy rong,  những đàn bò đen nghênh ngang, những đàn ngựa thồ ốm o vác nặng run rẩy  bước trên những con đường rất dốc.
Và những người Tây Tạng trầm tư buồn bã, trong đó có người chồng nghệ sĩ Urgyen.
Ngôi nhà của Urgyen mới cất, có một căn phòng dành riêng để thờ Phật  Di Lặc. Một bàn thờ tinh nghiêm giữa phòng có chân dung của một vị tulku  (tái sinh), xung quanh treo nhiều bức thangka. Hai cửa sổ che rèm vàng  óng ả. Một cái giường đơn trải thảm xanh thêu nổi, xung quanh giường  viền lụa vàng. Mùi nhang trầm thấm thía cả căn phòng. Anh bảo nếu tôi  không sợ thì ở trong phòng này buổi tối, ban ngày sẽ dắt lên ở trong một  tu viện vắng gần chân núi, Star sẽ bới xách thức ăn vào ban trưa.
Căn phòng thiêng liêng nhất nhà dành cho người lạ vừa gặp mặt. Các  ngôi chùa lớn ở Tây Tạng (không biết bây giờ còn không) thường dành một  căn phòng riêng để thờ Phật Di Lặc. Có lẽ Urgyen bắt chước lệ này, nhưng  lòng hiếu khách khiến anh phá lệ.
Xế chiều, Urgyen dắt tôi đi viếng đại tu viện Dzongsar do đại sư  Khenpo Kunga Wangchuk, vị tulku mà anh đang thờ, thành lập. Tu viện đang  có 500 tăng sinh Tây Tạng theo học. Ba dãy nhà hai tầng che ba hướng.  Chính điện thờ Phật Thích Ca nguy nga, đôi mắt dài xanh thẳm nhũng trầm  tư nhưng miệng mỉm cười. Bao quanh là núi mây, không gian trắng đồng cỏ  xanh, và tiếng bánh xe cầu nguyện rào rạt kêu trong chiều tà.
Rồi bỗng nhiên, lướt lên tất cả, tràn trên âm vọng thiên nhiên và  trong ánh nắng rơi sót giữa những làn sương trắng lưng lửng, giọng ca  lanh lảnh của một phụ nữ Tây Tạng lan tỏa trên đồng cỏ núi đồi. Tiếng  hát người du mục, thoát lên từ cổ, âm cao và sắc bởi luồng hơi từ lồng  ngực bị bóp lại, lan ra như những mảng chất lỏng nối nhau  tràn dần trên  đầu cỏ lung lay.
Âm thanh lanh lảnh, chảy lan ra, như ảo ảnh loang loáng trên đồng cỏ.
Như chất mật đắng được thắp long lanh bằng ánh sáng hắt lên từ núi tuyết.
Bám vào đồng cỏ nhưng không dừng lại, tiếp nối thành những tròn tỏa rộng, để gió mang đến tận chân núi chân trời.
Không gian rung động tiếng ca, hư không bị xé rách từ âm thanh sắc bén và hùng hậu thoát từ họng người bé nhỏ.
Uygyen bảo đó là tiếng hát của những du mục phải định cư. Ở quê, họ  sống trong các túp lều, mùa xuân lên ngựa lùa ngựa và bò yak về hướng  núi, mùa đồng rong ngựa về miền thấp. Một cái ấm trà, vài cái bát, tấm  bạt cuộn bên hông, đi theo thời tiết sống theo mùa màng. Không đâu là  nhà nên đâu cũng là nhà. Chính quyền Trung Quốc xây những cụm ghetto bắt  hàng trăm ngàn người du mục định cư. Người du mục có căn nhà họ không  bao giờ cần trong kiếp sống này. Họ mất trời, mất đồng cỏ, mất quyền  lang thang, lang bạt, giang hồ. Mất tiếng ca, mất lối sống khiêm tốn và  hùng tráng, mất lối sống biết hổ thẹn với lương tâm. Người du mục mất  tất cả khi mất quyền du mục.
Uygyen bảo anh thích bài hát này. Đó là tiếng kêu ‘du mục, như bóng  hình ảo ảnh cỡi trên cát sa mạc, như ánh mắt nổi trôi theo gió ngàn sa  mạc, du mục, không ai biết ngươi từ đâu tới, du mục, không ai biết người  sẽ về đâu, du mục, chỉ có ngươi ôm kín nỗi lòng.’
Trong mỗi người Tây Tạng như đều có dòng máu lang thang. Urgyen đi  liên tục. Đi triển lãm, đi tìm cảm hứng, đi tịnh tu nơi xa vắng. Cô vợ  Star xinh đẹp đầy sức sống than phiền trước mặt tôi: ‘Ảnh không bao giờ  đi chung với em!’ Urgyen nói có chứ, tại em quên, minh mới đi châu Âu,  đi Nepal. Star mỉm cười: ‘Anh lại sắp đi Đài Loan ba tuần.’ Urgyen bảo  thì anh đã nhờ chị (dâu) nấu nướng cho em rồi, có sao đâu. Star vừa đan  vừa nói chuyện, rồi bỏ que đan, bồng con cho bú, lại đan, móc. Trông cô  như một phụ nữ Á đông hiền thục, bỏ nước Úc tiện nghi theo người chồng  nghệ sĩ tóc dài chấm vai lúc nào cũng nghĩ chuyện đi. Trong một ngôi  làng rất bé nhỏ, giữa một cộng đồng có lối sống khác biệt, trong một đất  nước bất an mọi thứ.
Tôi nói riêng với Urgyen mầy đi hoài như thế vợ mầy làm sao. Anh tròn  đôi mắt xếch Tây Tạng, nét mặt anh lúc nào cũng thanh thản dù ngạc  nhiên: ‘Sao là sao?’ Thì buồn, gia đình không vui chứ sao. Urgyen bảo  không có đâu, Star lúc nào cũng vui, cô nói không nhớ gì nước Úc cả,  không nhớ cha mẹ anh em, chỉ thỉnh thoảng nói thèm cà phê latte và thèm  nói tiếng Anh. Tôi bảo: ‘Đừng bao giờ tin đàn bà.’ Urgyen nói sao được,  tao mới về Tây Tạng thăm mẹ, phải leo lên một ngọn núi rất dốc để thăm  bà mẹ bảy mươi chín tuổi đang tịnh tu trên đó, bà bảo con đừng về nữa,  miễn con yên ổn là được rồi.
Anh nói: ‘Phải tin mẹ chứ.’ Không tin mẹ thì tin ai, nhưng trong đời  sống này đừng tin người đàn bà nào cả trừ mẹ mình. Urgyen nhìn tôi đăm  đăm. Nét mặt anh trầm lắng một cách lạ thường.
‘Rồi khi mất mẹ?’
‘Làm người du mục.’
Urgyen chạy băng qua đồng cỏ. Mái tóc dài đen mượt của anh tung chấp  chới. Tiếng hát vẫn loang loáng vang xa, cao ngất, khóc ngất, mây ngất  trời chùng xuống dạt ra cho bàn chân du mục chạy về đâu, tiếng hát quyện  về đâu, chân trời chết tận đâu.
Urgyen gửi tôi vào một tu viện nhỏ. Một căn phòng lạnh chỉ có tường  trắng. Buổi trưa hai vợ chồng mang thức ăn lên. Buổi tối họ nhờ người  anh lái xe lên đón về nhà. Cả nhà đều ăn chay kể cả hai đứa nhỏ. Mỗi  người mỗi đĩa, lặng lẽ ăn trong mùi hương trầm quyện đặc. Khuya khoắc,  Urgyen ngồi tụng kinh trong phòng khách. Trước khi tụng anh lại cất  tiếng hát, hay có thể là một bài kinh gì đó có âm điệu đặc biệt. Giọng  anh u ơ tỏa ra trong bầu khí lắng đọng âm u của làng quê vắng vẻ. Rồi  anh vào phòng coi tôi ngủ chưa, bảo ‘mai dẫn đi coi bói’.
Hai vợ chồng dắt theo đứa con gái đầu Tergini 7 tuổi cùng đi. Tergini  trắng bong như mẹ, chỉ có đôi mắt giống cha. Chúng tôi đến một tu viện  Tây Tạng lâu đời nhất ở làng, đi nhiễu xung quanh chính điện theo truyền  thống Tây Tạng, rồi vào hậu viện gặp một vị sư đã lớn tuổi. Ông pha trà  bơ, lấy một cuốn sổ nhỏ bằng bàn tay đã rách cũ viết đầy Tạng ngữ, bìa  cuốn sổ có treo một chùm giây cũng cũ mèm. Ông hỏi Star muốn hỏi cái gì.
‘Con muốn biết nên cho Tergini học ở nhà hay đến trường?’
Ngôi làng có một trường tiểu học. Star vừa đan móc vừa dạy con, cô  muốn cho con học ở nhà hết bậc tiểu học theo chương trình Úc chứ không  muốn cho con theo chương trình Tây Tạng. Vị sư lần những sợi giây trên  bìa cuốn sổ. Ông trầm ngâm, thỉnh thoảng đưa cuốn sổ lên trán.
‘Học ở nhà tốt hơn.’
Star reo lên. Hai mẹ con ôm nhau mừng rỡ. Vị sư nói thêm:
‘Người du mục đi đâu mang con cái theo, có ở một chỗ đâu, tùy trời.’
Ông mặc nhiên coi Star thuộc cộng đồng Tây Tạng, như đó là cá tính  của người du mục, không ước lệ, đón nhận sự xa lạ như lẽ tự nhiên. Tùy  trời mà.
Ông dẫn chúng tôi lên tầng trên cùng của điện chính. Đó là khu không  dành cho công chúng. Bên trong thờ các vị thành tựu từng tu trong động  núi Hi Mã Lạp Sơn. Ông bảo tất cả ngồi xuống, rồi như một cách dạy không  lời, ông xếp bành, nhắm mắt, mũi khịt nhiều tiếng mạnh rền cả căn  phòng. Cô bé Tergini sợ hãi ngó quanh quất.
Buổi trưa, tôi từ giã để lên khu Upper Dharamsala. Star bảo nếu thích  thì cứ ở đây, hằng ngày hai vợ chồng sẽ bới xách vì đó là cách sống của  người Tạng, khi nào hết visa thì xin tiếp. Người Tạng rất hạnh phúc khi  làm những việc như vậy, cô bảo.
Tôi nói phải đi, ở một chỗ không yên vì đã thành người du mục. Du mục  mà không được lang thang thì giết quách họ cho rồi. Urgyen liền bắt lấy  câu nói, bảo vợ:
‘Em thấy chưa, bởi anh phải đi hoài là vậy.’
‘Thì em nói gì đâu, chỉ xin anh đi theo thôi mà.’
‘Em mới là bán du mục,’ giọng Urgyen trầm xuống. ‘Đôi khi anh muốn một mình, đôi khi anh muốn đi một mình.’
Tôi vác ba lô ra cửa. Bên ngoài anh của Urgyen đã nổ máy xe chờ sẵn  cho một đoạn đèo trắc trở nguy nan trèo lên miền Thượng. Chợt bé Tergini  vít tôi ngồi xuống, đưa hai tay xoa má, nước mắt ứa ra lặng lẽ.
Đời du mục, mấy ai đưa, khi đi cũng được những giọt lệ thơ ngây trong trắng.
Từ Khanh
Nguồn:Sáng tạo
Nguồn:Sáng tạo

0 comments:
Post a Comment