
SHMUEL YOSEF AGNON
(1888-1970)
SHMUEL YOSEF AGNON sinh năm 1888[1] và lớn lên trong một gia đình gồm những học giả tại Buczacz thuộc miền  Đông Galicia (nay là vùng Tây Ukraina). Buczacz là một cộng đồng Do-thái  không quá tám ngàn người và cũng là một trung tâm đào tạo các rabbi  (thầy cả) Do-thái giáo.
Agnon đã được hấp thụ nền văn hóa cổ truyền của Do-thái do thân phụ ông đích thân truyền dạy. Galicia lúc đó là một trong những trung tâm của nền văn chương tân Hy-bá. Ngay từ nhỏ Agnon đã khởi sự văn nghiệp trên báo chí tiếng Hy-bá và tiếng Yiddish[2] ở địa phương. Và kể từ năm 1907 tức là năm ông trở về Palestine, ông thôi không viết bằng tiếng Yiddish nữa.
Agnon đã được hấp thụ nền văn hóa cổ truyền của Do-thái do thân phụ ông đích thân truyền dạy. Galicia lúc đó là một trong những trung tâm của nền văn chương tân Hy-bá. Ngay từ nhỏ Agnon đã khởi sự văn nghiệp trên báo chí tiếng Hy-bá và tiếng Yiddish[2] ở địa phương. Và kể từ năm 1907 tức là năm ông trở về Palestine, ông thôi không viết bằng tiếng Yiddish nữa.
Việc Agnon từ đó chuyên sáng tác bằng tiếng Hy-bá có lẽ  phần nào đã do ảnh hưởng của phong trào phục quốc Zion của người Do-thái  mà ông đã tham gia. Nếu nhìn vào số ngôn ngữ được sử dụng tại Israel  ngày nay người ta sẽ thấy trong số hơn hai triệu dân, đã có tới một  triệu tám sử dụng ngôn ngữ chính thức là tiếng Hy-bá. Lớp di dân đầu  tiên từ các ngả trên thế giới trở về Israel còn nói hoặc hiểu được tiếng  Yiddish và một số ngôn ngữ dùng trong các nghi lễ Do-thái giáo, nhưng  hiện nay số thanh niên Israel chỉ dùng có ngôn ngữ Hy-bá ngày càng thêm  đông đảo. Tuy vậy, thứ tiếng Hy-bá của Agnon không hẳn là thứ tiếng mà  thế hệ trẻ hơn của Israel hiện sử dụng. Đúng hơn đó là ngôn ngữ của nền  văn chương truyền thống Hy-bá với những nhà văn tiêu biểu như Bialik,  Tchernichowsky và Shneur. Đứng giữa ngôn ngữ văn chương cổ truyền của  dân tộc và tiếng Hy-bá hiện đại hóa, Agnon đã quyết định nối kết các thế  hệ Do-thái bằng một nội dung đề cao truyền thống dân tộc, nhưng trong  khi chờ đợi một nền văn chương ổn cố của ngôn ngữ Hy-bá hiện đại, ông đã  lựa chọn diễn tả bằng thứ ngôn ngữ trang trọng của nền văn chương Hy-bá  cổ truyền (xuất hiện từ thế kỷ XI và còn kéo dài cho đến ngày nay).
Agnon làm thơ từ năm lên 9 và bài thơ đầu tiên của ông  được đăng vào năm ông mười sáu tuổi. Câu chuyện đầu tay của ông in tại  Palestine là truyện "Agunot". Ngay từ năm 1913, Shalom Streit đã nói về  tác phẩm này: “Một luồng điện chạy qua toàn thể cộng đồng chúng tôi khi  đọc truyện ấy.” Cùng với "Agunot" có nghĩa là cô đơn, trơ trọi hoặc đơn  độc,[3] ông khởi sự dùng bút hiệu Agnon thay vì tên thực là Czaczkes. Khi được  hỏi là bút hiệu này có liên hệ với truyện trên hay không, Agnon đã xác  nhận là có.[4]
Những năm kế đó, tuần báo Hapo’el Hatza’ir của nhóm xã hội chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tolstoi và những tư tưởng  địa dân (narodniki) đã đăng tải cuốn sách đầu của Agnon nhan đề Vehaya he’akov lemishor (Và những nơi cong queo sẽ được uốn ngay lại). Tác phẩm dài này đã làm  say mê độc giả Do-thái đương thời không ít đến nỗi Joseph Haim Brenner  đã phải dốc cạn túi tiền để xuất bản thành sách (1912). Đối với một  người vô thần như Brenner thì đây là “tác phẩm đầu tiên của nền văn  chương thế tục Hy-bá trong đó truyền thống đã trở thành phương tiện diễn  đạt nghệ thuật thuần túy...”
Năm 1913 Agnon qua Đức. Ông định ở lại vài năm nhưng vì chiến tranh[5] nên mãi tới năm 1924 ông mới trở lại Jerusalem được. Tuy nhiên những  năm ở Đức đã ảnh hưởng lớn lao đến văn nghiệp ông sau này. Ông tiếp xúc  với văn chương châu Âu và yêu chuộng sự hoàn hảo đến độ các truyện sáng  tác thường viết đi viết lại tới sáu, bảy lần. Trong thời kỳ này ông xuất  bản rất ít, chỉ chăm lo sửa chữa các tác phẩm cũ và viết những truyện  mới. Ông cũng làm khá nhiều thơ và viết một cuốn tiểu thuyết tự sự.  Nhưng tới tháng Sáu năm 1924, căn nhà ông ở tại Homburg gần Frankfurt bị  hỏa hoạn[6] và toàn bộ bản thảo, giấy tờ và tủ sách Hy-bá do ông sưu tập được đều  biến ra tro. Biến cố này đã thay đổi hẳn con người Agnon. Ông thôi không  sáng tác thi ca nữa và không bao giờ viết lại tác phẩm tự sự trên.
Năm 1929, sau khi ông đã trở về Palestine, căn nhà ông tại ngoại ô Jerusalem lại bị người Ả-rập cướp phá.[7] Lần này ông trở lại Galicia trong một chuyến thăm viếng ngắn ngủi và ở  lại Đức tới gần một năm để chứng kiến bốn cuốn đầu gồm các tác phẩm mà  ông đã thu thập, sửa chữa trong năm năm trời được ấn hành tại đây.
Cũng nên ghi nhận là Agnon là một nhà biên soạn các tuyển  tập văn chương rất có tài. Trong những năm ở Đức, ông đã biên soạn hai  tuyển tập bằng Đức ngữ. Ở Jerusalem ông đã bỏ khá nhiều ngày giờ để biên  soạn ba tuyển tập văn chương. Trong tuyển tập đầu nhan đề Những ngày kinh sợ,  gồm một kho tàng những chuyện cổ dân tộc, ông đã hài hước sắp thêm vào  đó những mẩu truyện trích trong một tác phẩm tưởng tượng được mệnh danh  là Kol Dodi (Tiếng nói của người tôi yêu dấu) và ghi chú rất tự nhiên ở phần thư mục là “một bản thảo mà tác giả hiện giữ”.
Trong ý định soạn những tuyển tập Do-thái này, Agnon cũng  đã đồng ý cộng tác với một triết gia Do-thái là Martin Buber nhưng về  sau tác phẩm chung của hai người bị thiêu hủy và Agnon không soạn lại  tác phẩm đó nữa.
Công cuộc soạn thảo các tuyển tập này đã ảnh hưởng tới  Agnon. Trong một số truyện, nhân vật chính của Agnon cũng là những học  giả. Hình như hình ảnh tận tụy vô vọng của các học giả có một sức thôi  miên tột độ đối với Agnon. 
"Trăng trên thung lũng Jerusalem" (Ido và Eynam)[8] cũng là một câu chuyện của một học giả; sự say mê tìm kiếm một thứ ngôn  ngữ và những ca khúc mà thế nhân đã để lạc mất trong vô tận của sa mạc  thời gian tưởng chừng như một việc phù phiếm, nhưng dưới ngòi bút của  Agnon lại mang những ẩn dụ sâu sắc và tế nhị (luôn luôn dựa trên một sự  hiểu biết căn bản về Do-thái giáo), gợi ra được cái khát vọng vô biên  của những con người sống trong một thế giới Babel hiện đại, và có một  sức chiêu dụ đến mê hoặc tột độ.
Gabriel Gamzou, nhân vật khó quên trong truyện này đã  phản ảnh phần nào tác giả, một tâm hồn xao xuyến luôn khát vọng hợp  nhất, sẵn sàng đương đầu với những tiếng nói của ngày Phán xét cuối  cùng, như sách đã viết: “Ngay từ tiền sảnh, con hãy sửa soạn để đi vào  phòng khách”. Với "Trăng trên thung lũng Jerusalem", câu chuyện thường  được coi như là truyện ngắn đẹp nhất của Agnon, người đọc có thể tìm  thấy qui tụ lại nhiều khía cạnh của tài năng Agnon và những chủ đề chính  của ông: sự thiếu quân bình của cái hiện tại còn hoài niệm một thời đại  vàng son khi mà “người Do-thái còn biết cầu nguyện và ngợi ca Chúa  trong một niềm tin ngây thơ và chân thành”; sự xao xuyến cô đơn và nỗi  sợ hãi phải mất nơi cư ngụ thể chất là mái nhà, hoặc nơi cư ngụ tinh  thần là nhà nguyện; sau rốt là giấc mơ như một dự cảm hay sức hấp dẫn  huyền diệu, mê hoặc, giữa sự sống và sự chết...
Quả thật, như giáo sư Gershom Scholem của viện Đại học  Hy-bá ở Jerusalem đã viết, “Agnon đã khởi sự văn nghiệp bằng cách viết  những truyện ngắn, và chính trong lối sáng tác này ông đã đạt được một  sự hoàn hảo khiến người đọc phải theo rõi đến đứt hơi thở”.
"Trăng trên thung lũng Jerusalem" cùng với một số truyện  ngắn khác của Agnon đã trở thành những tác phẩm cổ điển châu báu của dân  tộc Israel ngay trong thế kỷ 20. Bí quyết chính của sự hoàn hảo này là  Agnon đã khéo léo phong phú hóa tác phẩm bằng vô vàn chi tiết lọc lựa  hết sức nghệ thuật trong một hình thức văn chương vô cùng giới hạn.
Trong tác phẩm của Agnon, những đam mê của con người  chiếm phần quan trọng chính, nhưng Agnon có một lối viết, một ngôn ngữ  diễn đạt điềm tĩnh lạ thường, khác hẳn thứ ngôn ngữ đầy xúc cảm của  những nhà văn Hy-bá trước ông. Agnon cũng thường lưu tâm tới những con  người hèn mọn, bình thường, mà cuộc sống với muôn vẻ đều bày ra những  cảnh tượng hết sức thực mà đồng thời lại đầy những mầu sắc huyền bí.
Bởi thế mà rất nhiều khi trong truyện của Agnon một nỗi  buồn khôn tả thường đi đôi với một niềm an ủi siêu nhiên. Trong một  truyện ngắn của Agnon, một công nhân nghèo khổ nọ, một người đơn độc trơ  trọi trên đời, đã cần mẫn dành dụm chút tiền để có thể trở về “Đất  Thánh”. Nhưng không biết giấu tiền ở đâu cho chắc dạ, bác đã bỏ tiền vào  một hộp lạc quyên đặt bên dưới cây thập tự ngoài đường lộ. Sau cùng,  khi tìm đến lấy lại món tiền đã giấu thì bác bị bắt về tội ăn trộm của  thánh. Bác bị tù và bị kết án tử hình, nhưng trong ngục bác được “Người”  tới thăm viếng – trong tiếng Hy-bá “Người” đây chỉ Jésus – và đưa tới  thành thánh Jerusalem nơi đồng bào bác nhận thấy bác đã chết.
Sau khi trở lại Jerusalem,[9] Agnon đã sáng tác một số tiểu thuyết dài. Những tác phẩm xuất sắc nhất  của ông hợp thành một bộ ba cuốn mô tả đời sống Do-thái trong một trăm  năm từ 1830 đến 1930. Ấy là những cuốn Của hồi môn của nàng dâu (1931), Người khách trọ một đêm (1940) và Cách đây không lâu (Tmol shilshom, 1946).
Của hồi môn của nàng dâu (Hakhnasat Kalla) kể  lại những cuộc phiêu lưu của Thầy cả Jude Hasid, người đã phải lang  thang khắp vùng Đông Galicia để thu thập chút của hồi môn cho ba cô con  gái đi lấy chồng. Trong tác phẩm này Agnon không những đã mô tả tục lệ  phải lo của hồi môn cho con đi lấy chồng của Do-thái mà còn vẽ lại một  cách chính xác và đầy màu sắc lối sống thuần túy Do-thái ở thế kỷ 19,  trước khi va chạm với thời hiện tại.
Tám mươi năm sau khung cảnh đã hoàn toàn thay đổi hẳn. Yitzhak Kummer, vai chính của Cách đây không lâu,  là cháu của Thầy cả Judel. Tuy nhiên lý tưởng của thế hệ trẻ là xây  dựng một xã hội mới, là tái tạo một dân tộc Do-thái nơi cố hương. Trong  thời kỳ này, những nền tảng của xã hội cũ như tôn giáo, truyền thống đều  bị lung lay. Mọi sự đều ở trong giai đoạn chuyển tiếp, bất ổn. Kummer  tha thiết với ý tưởng phục quốc nhưng anh cũng không muốn chối bỏ truyền  thống. Anh không tìm thấy chỗ đứng của mình giữa xã hội cũ ở Jerusalem  và xã hội mới ở Tel Aviv và những nông trại. Anh luôn luôn cố gắng nối  kết cuộc sống hiện tại với thế giới truyền thống đầy hứa hẹn an ủi nhưng  mọi cố gắng dường như đều vô ích. Cuộc sống mới mà phong trào phục quốc  Zion đề xướng chưa đạt được những kết quả mong muốn. Và lối sống cũ,  với những vinh quang quá khứ, thì không sao tìm thấy đường về với hiện  tại. Các truyện ngắn và tiểu thuyết của Agnon thường đi lại giữa hai  thái cực không sao đạt tới được này. Ở cuối tác phẩm Cách đây không lâu,  Agnon có hứa hẹn sẽ viết về đời sống của thế hệ trẻ ở Israel hiện tại,  lẽ dĩ nhiên với những hình thái tích cực hơn của xã hội mới. Tuy nhiên  cuốn tiểu thuyết này chưa xuất hiện.
Người khách trọ một đêm dường như là tác phẩm  sầu muộn nhất của Agnon, một người sùng thượng thế giới đẹp đẽ cổ  truyền của dân tộc ông. Ngược lại với Kummer đi tìm thế giới mới và chỉ  gặp thấy trống rỗng trong sinh hoạt ở phần đất Palestine của Israel,  người kể truyện trong Người khách trọ một đêm từ thế giới mới trở về thăm thế giới cũ của thị trấn Szybuscz sau hai  mươi năm trời xa vắng. Và nơi chôn nhau cắt rốn giờ đây chỉ là một nơi  khốn khổ, hoang tàn, thoi thóp những phút cuối cùng của đổ nát. Tất cả  những cố gắng tái tạo dĩ vãng dường như cũng hoài công, vô vọng. Và  trong dĩ vãng ấy của cố hương, người kể chuyện chỉ là một “khách trọ qua  đêm”. Trong truyện nhân vật chính đã phải thốt ra như sau: “Khi còn trẻ  tôi có thể thấy trong trí tất cả những gì tôi ao ước thấy; ngày nay tôi  không thấy cả những gì tôi ao ước thấy lẫn những gì người ta chỉ cho  tôi”. Với một tâm hồn yêu mến quá khứ như Agnon, nỗi buồn kia đã trở  thành một ám ảnh vô cùng đau đớn.
Trong viễn tượng ấy của những khát vọng trần thế, những  năm gần đây, Agnon đã khởi sự viết một tác phẩm tự sự thật kỳ lạ. Trong  tác phẩm mới ông đã ngược dòng thời gian đến cả hàng ngàn năm và kể lại  những cuộc thiên cư của tâm hồn ông qua mọi giai đoạn quan trọng của  lịch sử kể từ những ngày Sáng thế. Tác phẩm tự sự có tích chất lịch  sử-siêu hình này mang nhan đề là Hadom ve-Kissei (Ghế và Ngai)[10] cho đến nay vẫn chưa hoàn tất, tuy nhiên nhiều đoạn dài đã được trích đăng.
Năm 1934, Agnon được tặng giải thưởng Bialik nhờ cuốn Của hồi môn của nàng dâu.
Và giải thưởng Ussischkin cũng đã về tay ông với tác phẩm Cách đây không lâu.
Năm 1954, Agnon được bầu làm nhân viên Hàn lâm viện Hy-bá  và cùng năm đó, toàn bộ tác phẩm của Agnon đã được giải thưởng Văn  chương cao nhất của Do thái, Giải ISRAEL.
Agnon thường được coi như một nhà văn kiệt xuất đã nối  kết được thế hệ đi tiền phong trong phong trào phục quốc Do-thái và thế  hệ đương lên hiện tại ở Israel bằng một nội dung thâm trầm và sâu sắc  nêu cao truyền thống dân tộc trong mọi tác phẩm.
Năm 1966, Agnon đã được Hàn lâm viện Thụy điển trao tặng  giải thưởng Nobel văn chương cùng với nữ văn sĩ Nelly Sachs. Tác phẩm  của ông đã được phiên dịch ra chừng 15 thứ ngôn ngữ trên thế giới.
Shmuel Yosef Agnon[11]không  những là một nhà văn lớn của Israel mà còn là của toàn thế giới – như  Edmund Wilson, người đã đề nghị trao tặng giải Nobel cho ông, đã nói:  “... điều làm cho Agnon đáng kể như vậy và xứng đáng với giải thưởng  Nobel là ở chỗ ông đã có thể thể hiện tới mức ấy trong thế giới Do-thái  của ông, cái nhân loại tính chung của chúng ta...”
Diễm châu
___________
TẤM BẠT
Thuở xưa, có một quốc gia đột nhiên gặp phải một tai hoạ  lớn. Từ khi được tạo lập ra đến nay chưa bao giờ quốc gia ấy phải đương  đầu với một cảnh ngộ thảm khốc đến như vậy: trời không có mây và đất đai  khô cằn không còn sanh sản cây trái gì được nữa. Người ta có thể bảo là  Trời và Đất đã thề bỏ cho tàn lụi những kẻ sống sót cuối cùng của cái  dân tộc vừa thoát nạn ấy. Thực phẩm dần dần biến đâu mất trên thị  trường, nạn đói làm cho mặt nào mặt ấy hốc hác ra. Hạt lúa mạch đã trở  nên quí báu hơn cả tiền bạc, lúa mì bán đắt như vàng: sữa thì trong hơn  nước lã và nước lã thì không tìm đâu ra được. Bởi vì Chúa đã đem lại hạn  hán...
Ngày tháng trôi qua. Mặt trời, chạy lăn trên trời như một  cục lửa tròn, dường như đùa với đất. Đêm này qua hết đêm kia và mặt  trăng khô héo dường như lại còn teo tóp lại nhiều hơn nữa. Trên mặt đất,  bọn đầu cơ ngự trị cũng hùng mạnh như đạo binh những vì tinh tú trên  trời và bụng họ phệ ra làm gợi lại những chiếc bụng phình trương khi  chết. Thế nhưng những kẻ mạnh lại yếu dần, những kẻ yếu thì ngã bệnh, và  những kẻ bệnh thì mỏi mòn rồi chết.
Tai hoạ không khi nào lại đến một mình. Khi người ta biết  được là kẻ thù đang vây hãm và sắp xâm chiếm xứ sở, không còn ai có sức  lực để chống lại được nữa. Những liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt  và không một thức ăn nào từ ngoài nước đưa vào được cả. Vả lại, từ hồi  nào đến giờ, và cả đến những năm sung túc, Chính Phủ cũng phải nhập cảng  lúa mì và thịt. Giờ đây túng bấn, Chính Phủ không còn may mắn nào nữa  để nuôi sống dân chúng: và dân chúng thì lại quá đói không thể nào cầm  khí giới và ra trận chống kẻ thù được. Không còn ai đứng thẳng người  nổi, trừ những bọn đầu cơ đang khoe khoang biểu diễn: vì bọn chúng biết  cách chứng tỏ là mình cần thiết cho Quốc Gia và hy sinh cho lợi ích  chung, chúng được kiểm soát việc phân phối các đồ tiếp tế. Đất Nước bắt  buộc phải chịu đựng chúng hoặc chịu chết đói.
Kẻ thù, thấy không có ai đủ sức đương đầu với mình, càng  ngày càng tỏ ra hung hăng: giăc giã đe doạ ngoài biên giới, nạn đói  hoành hành trong nước, tình thế không lúc nào có thể bi đát hơn được  nữa. Thế mà một vết thương mới lại giáng xuống Đất Nước, còn kinh khủng  hơn các vết thương trước, bởi vì Đấng đã đem lại những thiên tai kia  không biết đo lường, Ngài để dành lại, và dành cho đến vô cùng tận,  những tai hoạ lúc nào cũng lớn hơn.
Bây giờ ta hãy trở ngược về trước một lúc. Hồi đó Đất  Nước lọt vào tay của hai đảng, đảng “Đầu trần” và đảng “Đội nón”. Tất cả  những gì đảng này đề xướng, thì đảng kia gạt bỏ. Hơn nữa, chính các  đảng đó lại chia thành từng nhóm ghét nhau còn hơn cả kẻ thù ngoại bang  thù ghét hai đảng “Đầu trần” và “Đội nón” hợp lại nữa.
Làm sao có thể có chuyện một Quốc Gia duy nhứt lại chứa  chấp được ngay trong lòng đất của mình hai quốc gia thù nghịch? Thế mà  vẫn có. Và nguyên nhân rất giản dị: mỗi người trong dân tộc đó diễn giải  lịch sử một cách khác nhau và chịu ảnh hưởng của Quá Khứ một cách khác  nhau (dù đã từ lâu, bộ mặt của thế giới đã thay đổi, các tập quán đã  biến chuyển, và con cái đã bỏ đi những truyền thống thân yêu của tổ  tiên).
Mọi người đều công nhận rằng dân trong Xứ đều thuộc dòng  dõi những người Do-thái. Nhưng có kẻ cho rằng mình có liên hệ với dân  Do-thái thời trước Luật của Moïse vốn là những người Do-thái chưa bị  buộc phải che đầu: bởi vậy họ nhập vào đảng “Đầu trần”. Những kẻ khác  thì cho rằng mình thuộc dòng dõi dân Do-thái sau Luật của Moïse: truyền  thống bắt họ phải che đầu và họ đã gia nhập đảng “Đội nón”. 
Bây giờ người ta mới hiểu được mối thù hận sâu xa làm bọn  “Đầu trần” và bọn “Đội nón” chống đối nhau. Nhưng tại sao ngay bên  trong mỗi đảng lại còn có nhiều phe khác nhau? Bởi vì các đảng viên “Đội  nón” không phải hết thảy đều có đội nón hay sao? Hẳn nhiên là họ đều có  đội nón! Nhưng mũ nón cũng có nhiều thứ! Nào mũ nồi mũ lưỡi trai, nào  mũ bằng mũ chóp, mũ hình nhọn hình trụ, mũ chóp lụa chóp nhung, nào khăn  vấn đầu, nào nón đội nào mũ rơm, cái thì bé tí như mũi kim, cái thì to  lớn như cả lòng tham muốn. Tóm lại cái đầu chỉ là thứ phụ, chính yếu là  phải có cái gì để trên đầu. Còn những đảng viên “Đầu trần”, họ có lý do  gì mà gây với nhau? Họ chẳng để trần cả cái đầu tóc ra đó sao? Hơn thế  nữa chứ! Người thì đầu hói, kẻ thì đầu cạo trọc. Có đầu hớt ngắn như bàn  chải, có đầu tóc để móc ngoéo, những chiếc trán thấp và những thái  dương trơn tru. Tóm lại cái đầu chỉ là thứ phụ, chính yếu là không được  có gì trên đó cả.
Các ý kiến thay đổi như những chiếc đầu và những chiếc  đầu thì quay theo gió, đầu thì về phương đông, đầu thì về phương tây:  nếu tình cờ, chúng có đối mặt nhau, ấy là để chọi nhau, bởi vì không bao  giớ chúng đồng ý với nhau về công việc Quốc Gia cả. Tất cả lại chỉ hợp  nhau về có một điểm, họ cho rằng tất cả những khó khăn của Đất Nước đều  do những nhầm lẫn của đảng bên kia. Nếu tác giả của cuốn sách này không  sợ rằng mình nói mà không nói lên được gì cả, thì ông ta sẽ xin xác nhận  rằng, về điểm này, cả hai đảng đều có lý.
Lúc bấy giờ, trong Quốc Gia đó, có một người không thuộc  đảng “Đầu trần”, cũng không thuộc đảng “Đội nón”. Đó là một người đàn  ông giản dị và khờ khạo, khi lột nón xuống là để gãi đầu và khi đội nón  lên là để ra đường. Chú ta thấy đất nước đang lâm nguy và, vì muốn cứu  lấy quê hương, chú quyết định đi cầu nguyện cho trời mưa xuống. Van xin  lòng từ bi của Đấng Từ Bi, chắc chắn đó là ý nghĩ đầu tiên phải đến  trong đầu mọi người. Nếu dân trong Quốc Gia này không hề nghĩ đến điều  đó, chính là bởi con người có khuynh hướng quên mau hơn hết những gì họ  cần phải nhớ hơn hết. Chú khờ của chúng ta bèn đi một vòng khắp các nhà  thờ và khắp các nhà nguyện, nhưng không tìm ra được một chỗ nào: bọn  “Đội nón” đã chiếm hết để dùng vào việc tuyên truyền cho họ. Vậy là,  trùm một cái bao và mình đầy tro tàn, chú ta băng đồng, đi về phía rừng,  đến nơi mà con người không bao giờ đặt chân tới. (Ấy là bởi người ta  thường thích ở thành phố hơn, vì ở thành phố người ta có thể nghe và đọc  những bài diễn thuyết). Và, quỳ trước Chúa, chú cầu khẩn Người với tất  cả lòng thành của chú, chú khóc và cầu nguyện cho mưa rơi xuống và phì  nhiêu miếng đất tang tóc, cầu nguyện cho con người được sống.
Chúa đang chờ đợi lời cầu nguyện của loài người. Người  sẵn sàng chấp thuận những thỉnh cầu của họ: đó là một đấng Chúa Trời có  thiện chí thương yêu loài người do mình tạo ra. Thế nhưng đám dân của  Quốc Gia này quá bận cãi nhau, nói xấu nhau, thù ghét nhau, nên không  tìm đâu ra được thì giờ để nghĩ đến đấng Tạo Hoá và đấng Cứu Thế của họ,  nghĩ đến đấng an ủi và cứu rỗi những kẻ bất hạnh, đến đấng tạo hạnh  phúc cho loài người, khi loài người tỏ ra xứng đáng với lòng thương yêu  và sự cứu rỗi. Như vậy là vào lúc mọi người không còn nhớ đến những gì  lẽ ra họ phải nhớ, thì người ta nghe đồn rằng một người trong bọn đã cầu  nguyện cho trời mưa xuống.
Tiếng đồn lan dần và tới tai mấy ông Bộ trưởng trong  Chính Phủ. Lập tức tất cả đều hoảng hốt, bọn “Đầu trần” cũng như bọn  “Đội nón”. Bọn “Đầu trần” sợ hơn hết là lời cầu xin của chú Khờ được  toại nguyện: điều đó sẽ chứng tỏ rằng còn có một sức mạnh ở trên sức  mạnh của họ. Bọn “Đội nón” điên lên vì thấy có một người chưa bao giờ  đến trường học của họ, chưa bao giờ gia nhập những Hội tôn giáo của họ  mà cũng chưa bao giờ ăn thức thừa của những Thầy cả của họ, mà lại xen  vào một việc thuộc riêng của họ, là cầu nguyện. Cầu nguyện là của riêng  họ, chỉ họ mới được quyền đem dùng, chỉ họ mới được Ân Sủng. Thế nên,  tất cả, bọn hai đảng náo động và làm ầm lên, viện nhiều lý lẽ thật là  khác nhau. Thật ra, cả hai bọn đều chỉ có một bất bình duy nhất đối với  người cầu nguyện kia: Hắn không thuộc đảng nào cả. Chẳng bao lâu sự giận  dữ chung của cả hai bọn đối với kẻ xâm nhập làm cho họ xích lại gần  nhau, không bằng sự kiện thì cũng bằng chủ tâm. Báo chí trong chiều  hướng đó đã mở một chiến dịch rất hữu hiệu và xúi giục hai đảng hành  động. Thật ra người đàn ông kia là ai vậy? Ai đã sai hắn ta đến? Nhân  danh ai và nhân danh cái gì mà hắn ta cho mình đại diện bên cạnh đấng  Tối Cao? Đó là những câu hỏi không ngớt trở đi trở lại dưới ngòi bút các  ký giả. Người ta cười, người ta chế nhạo cái con người ngây ngô nhỏ bé  cứ muốn cho người ta thấy mình là một người lớn và người ta buộc tội  đấng Toàn Năng đã coi thường những vị đại diện Quốc Gia để đi dùng một  nhân vật vô nghĩa đến nỗi không lập ra được một đảng. Cánh cửa mở rộng  cho các lời bình phẩm. Thế là xuất hiện những nhà hùng biện và cùng với  họ là những nhà thuyết giáo, những tay ăn nói lẻm mép và những tay diễn  thuyết đủ các loại. Mỗi người cho ý kiến của mình, bởi vì biến cố kia có  thể đem lại lắm hậu quả. Vì cái lối vô kỷ luật của mình, người kia phải  chăng suýt làm lung lay nền móng Quốc Gia? Hắn ta đã chẳng làm phương  hại đến trật tự đó sao? Không thay mặt cho đa số, mà cũng không thay mặt  cho thiểu số nữa, thế mà hắn ta đã chẳng tự ý dám cho mình làm đại diện  bên cạnh đấng Tối Cao là gì? Hắn chính là một kẻ gây rối, một tên phiến  loạn, một kẻ thù của Dân Tộc.
Bút đã đổ ra nhiều mực và các độc giả đã nuốt hết cả mực  trong lọ để rồi liền sau đó khạc ra khắp cả nước. Ai ai cũng đều biết  câu chuyện và hễ có ai mở miệng ra, là người ta ngắt ngang để đem câu  chuyện ra bàn. Nhưng điều lạ nhất là tất cả đều có cùng một ý kiến, và  chẳng những họ cùng nghĩ như nhau mà còn nói cùng một chuyện, bằng một  chữ như nhau và với một giọng nói như nhau.
Người ta chỉnh đốn hàng ngũ, người ta làm những bản điều  trần, người ta gởi đại diện đến gặp mấy ông tổng trưởng. Những vị này  nhận tất cả những bản phản đối và bằng lòng tuyên bố khai chiến, vừa tấn  công vừa phòng thủ, với kẻ đã vi phạm kỷ luật Quốc Gia. Đó chỉ là những  bài diễn văn thôi, người ta chưa hề nghĩ đến hành động. Nếu không có  bọn đầu cơ xen vào, mọi việc sẽ chỉ dừng lại ở đó và sẽ không có gì đi  quá được những lời nói và những câu vu vơ hão huyền.
Bọn đầu cơ, thì dù ở đảng nào, trong đầu cũng chỉ nghĩ có  mỗi một chuyện: làm giàu. Khi tài sản bọn chúng lâm nguy, cả bọn náo  động, vì biết chắc không có gì phá bỏ thành kiến và gây tình thương yêu  được bẳng tiền bạc. Thế là những tay giàu sụ của Quốc Gia nhóm lại thành  một đại hội khác thường. Một hành động cấp bách được coi là cần thiết  để ngăn chặn cái mầm hỗn láo mới mọc ra nhằm phá hoại Chính Quyền, coi  thường mọi sắc lệnh. Giờ phút nghiêm trọng. Tổ quốc lâm nguy. Quốc gia  nghèo dần, yếu dần, èo uột, dân chúng đói khát! Thế mà, hễ bụng đói thì  chẳng có gì phải sợ mất, và ai không có gì để mất thì luôn luôn sẵn sàng  nổi loạn. Ở đây tác giả cuốn sách này phải mở một dấu ngoặc để nhìn  nhận rằng bọn đầu cơ nói hết sức đúng sự thật: dân chúng quả là có đói,  có yếu và kiệt sức đi. Bằng chứng rõ ràng nhất là vai của bọn bồi bàn  cong oằn xuống và bị đè bẹp dưới sức nặng của những thức ăn và thức uống  sửa soạn cho buổi tiệc bế mạc Đại Hội các tay Đầu Cơ...
Không có gì bằng được rượu ngon và thịt béo để làm cho  tâm hồn được khoan khoái. Không có gì bằng được một cái bụng no nê để  làm cho trí óc mình dễ hoà hợp. Sau bữa ăn, bọn đầu cơ tươi cười, thư  thái và còn lịch sự nữa, đều đã đồng ý với nhau. Vả lại người ta cũng  không phân biệt ai là “Đội nón” ai là “Đầu trần” nữa. Vì ăn quá nhiều và  uống cũng quá nhiều, cả bọn mồ hôi nhễ nhại. Nhưng, trong khi bọn “Đội  nón” lấy nón ra quạt và trở thành “Đầu trần”, thì bọn “Đầu trần” lấy  khăn ra lau đầu và trở thành “Đội nón”. Và ai cũng ngạc nhiên tại sao  mình có thể coi người đảng kia như kẻ thù... Họ chẳng giống nhau cả đó  sao? Họ chẳng bình đẳng về mọi mặt đó sao? Cùng đồng ý với nhau, họ  quyết định tìm cho ra một giải pháp để giải quyết cơn khủng hoảng. Giải  pháp đó là giải pháp gì? Xin độc giả kiên nhẫn một tí. Nó sẽ được tiết  lộ ngay đây.
Thoạt nhìn thì chuyện giải pháp dường như do phép nhiệm  mầu, thế mà nó có thật đấy. Bọn đầu cơ lăng xăng, sách động những vị dân  biểu và tổng trưởng, mỗi người tấn công vào chính đảng của mình thay vì  vào đảng đối lập, và rốt cuộc tất cả các phe phái đều gặp nhau để hội  họp công khai tại một nơi gọi là “Jacasse”[*] (Đây là nơi tất cả bọn người đa ngôn dài lưỡi ngự trị.) Có vô số các  nhà hùng biện và những bài diễn văn khác nhau của họ. Nhưng mọi người  đều đồng ý báo cho dân chúng biết trước về mối nguy xảy đến khi bất thần  những cơn mưa sắp tới đổ xuống. Nếu Trời dọn đường cho mưa, nếu Đất có  hoa màu, Trật Tự của Quốc Gia sẽ rối loạn toàn thể, bởi vì Chính Phủ  không hề đồng ý. Đó sẽ là công trình của một kẻ bất tuân đã dám theo  sáng kiến của chính mình mà cầu cho trời mưa. Gương xấu sẽ kéo theo  những việc xằng bậy khác, và thêm vào nữa là hoàn toàn tàn phá Quốc Gia.  Thế thì người ta sẽ đi đến đâu nếu bất cứ ai muốn làm gì thì làm, không  cần sự đồng ý của Chính Quyền trong Nước? Vả lại, tốt hơn nên coi chừng  Chúa vì không phải lúc nào Người cũng để tâm đến việc làm của Người và  Người có thể sơ suất để cho mưa rơi xuống lắm. Cuối cùng người ta đồng  thanh quyết định chọn lời đề nghị đưa ra đầu tiên và hành động liền  không bàn cãi mà cũng không trì hoãn, không kèo nài cũng không gia hạn.
Chỉ có những Ông Lớn trong Quốc Gia mới được vào Hội Đồng  đặc trách giải quyết vấn đề. Người ta sẽ không bàn cãi lâu. Dự án được  bọn “Đầu trần” đưa ra. Bọn này không bao giờ thấy thoả mãn: họ thù ghét  mặt trời đã làm khô trí óc của họ và thù ghét mưa đập vào cái đầu hói  hay cái trán để trần của họ. Họ buộc tội Trời nham hiểm bắt họ phải đội  nón và, trong cuộc đấu tranh của họ chống lại kẻ địch kia, họ đã tìm ra  một cách bảo vệ: dĩ nhiên không có một cái nón nào, mà là một thứ lều mở  ra vào lúc trời tốt hoặc trời xấu mà họ gọi là “lọng” hay “dù”. Tóm  lại, khi phải che thân dưới Trời, thì không bao giờ họ chịu vô phương  bởi vì về việc này họ đâu phải dân tập sự. Chẳng có gì là lạ khi họ nghĩ  ngay đến việc dựng lên một thứ lều, hoặc giăng ra một thứ vải bố để che  miếng đất Quốc Gia từ đầu đến cuối và để nó khỏi bị mưa ướt. Như vậy,  khi mưa đổ xuống, thì mưa sẽ bị chắn lại giữa chừng và không bao giờ đến  mặt đất được. Ruộng đồng sẽ vẫn không được trồng trọt và Kỷ Luật sẽ  được an toàn: Quốc Gia, khi vật ngã kẻ muốn phá hoại Uy Quyền của mình,  tức là đã bóp nghẹt từ trong trứng những dự định của bọn phản loạn,  những đồng loã của chúng. Đề nghị của bọn “Đầu trần” làm bọn “Đội nón”  rất lấy làm vừa lòng. Vì  đề nghị đó dựa trên ý nghĩ “che đầu”, nguyên  tắc chính đối với đảng viên Đảng này, cả bọn bằng lòng đem áp dụng một  cách nồng nhiệt.
Người ta liền tổ chức bầu cử một số Ủy Ban: Ủy Ban thứ  nhất lo việc chọn những người đạc đất thành thạo để đo chiều dài và  chiều rộng Quốc Gia; Ủy Ban thứ nhì lo việc đặt bọn thợ dệt làm một tấm  bố vừa bằng diện tích Quốc Gia; Ủy Ban thứ ba liên lạc với bọn thợ mộc  để dựng những giàn trụ nhằm đỡ tấm bố. Một Ủy Ban thứ tư chịu trách  nhiệm về việc đặt giàn trụ và một Ủy Ban khác chịu trách nhiệm về cách  thức chôn trụ xuống đất. Sau rốt người ta chỉ định một Ủy Ban Giám Thị  “Thợ Dựng Bạt”. Rồi người ta bầu ra một Ủy Ban cuối cùng, không để làm  gì cả, bầu vậy thôi, và người ta chia Ủy Ban này ra làm hai Ban, một ban  gọi là A và ban kia là B, bầu vậy thôi, không để làm gì cả. Khi tất cả  các Ủy Ban đều được chỉ định, người ta lập ra Ủy Ban của các Ủy Ban.
Lại còn phải lập ra một Ủy Ban đặc biệt để tìm một cái  tên cho tấm bạt che: Cái gì có mang một cái tên thì có thể trở thành  biểu tượng và đem lại nhiều tiền bạc. Và người ta lại cần tiền, rất  nhiều tiền, để trả công làm tấm bố và công dựng các giàn trụ (và nhất là  để cung dưỡng tất cả các Ủy Ban kia). Vậy là Ủy Ban đặc trách việc đặt  tên cho Tấm Bạt Che khởi nhóm và, sau nhiều phen thảo luận, Ủy Ban này  quyết định ủy nhiệm quyền đặt tên lại cho Hội “Ngữ Học” chuyên nghiên  cứu các thổ ngữ. Không còn gì chính đáng bằng, vì tất cả các hội viên  của cái Hội Đồng trứ danh này đều nói được ít nhất là mười thứ tiếng và  biết cả hàng triệu chữ – người ta còn kể lại rằng có nhiều vị trong số  hội viên đó còn biết cả tiếng mẹ đẻ của họ nữa.
Tất cả các Ủy Ban và Ủy Ban của Ủy Ban đều đặt tại các  khu nhà lớn được mướn để làm việc nói trên. Các Ủy Ban này thu nhận cả  một đội thư ký và kế toán viên, gác dan và giữ cổng. Vào ngày đã định,  Hội “Ngữ Học” khởi sự làm việc để tìm một cái tên cho tấm bạt che. Lần  bỏ phiếu đầu tiên, người ta ghi nhận nhiều đề nghị, như là  “Pluvioslaire”, bởi vì tấm bạt được dùng để che mưa, “Logodynaire”, bởi  vì nó nhằm tăng cường Luật Pháp và Kỷ Luật Quốc Gia, “Tectonaire”, bởi  vì nó sẽ giống như một cái lều, sau cùng là “Protestaire”, để đánh dấu  việc phản đối những cơn mưa muốn phá hoại Uy Quyền Quốc Gia. Người ta  chọn tên “Protestaire”. Ta nên để ý là tất cả những chữ trên đều chấm  dứt bằng vần AIRE, chắc hẳn là để gợi hứng cho các thi sĩ bằng cách hiến  sẵn cho họ một vần vừa dồi dào vừa thông dụng...
Người ta bầu thêm hai Ủy Ban mới nữa, cả hai đều phụ  trách việc quyết định cách viết dứt khoát của cái tên được chọn. Có  người cho rằng phải viết là “Protestère” và người khác thì bảo phải viết  là “Protestêre”. Một Ủy Ban thứ ba có nhiệm vụ phân định về cách đọc  phải chấp nhận: các ý kiến của dân trong nước rất khác nhau, bởi vì  người thì đọc “Protestêre” kẻ thì đọc “Protestère”. Rồi người ta đi đến  chỗ đồng ý với nhau và chữ viết “Protestaire” làm hài lòng mọi người,  những người có chủ trương có dấu huyền cũng như những người có chủ  trương có dấu mũ.
Liền ngay khi tên tấm bạt che được loan ra, các nhà hùng  biện vội chạy đến để cổ võ đám đông và xúi giục họ qui phục kỷ luật và  tấm bạt “Protestaire”. Các tờ báo đăng lại những bài diễn văn của họ và  viết những bài báo khác về đề tài này.
Các thi nhân tuy vậy cũng không kém cảm hứng.
“Rời bỏ những cuốn ký sự u ám để đọc kinh
“Họ cất cao tiếng hát đến độ như nhại lại
“Tiếng kêu vang rền của loài cóc Ai-cập.
Thế nhưng chính phủ vẫn theo dõi cái chính yếu: mở một  công trái và chỉ định những người thu thuế, những người thu ngân, những  nhân viên quảng cáo và giữ cửa. Họ đi rải rác khắp các thành phố và làng  mạc để cổ võ đám dân chúng tụ tập. Họ đều bắt đầu giống nhau là tố cáo  mối nguy hại “gây loạn” và chấm dứt bằng câu tuyên truyền: “Ủng hộ tấm  bạt 'Protestaire' để thống nhất quần chúng và cứu nguy Tổ Quốc”. Những  tấm lòng bừng bừng, những bàn tay đưa ra, những ví tiền mở rộng. Cảm  động, đám dân quê rút từ trong các hang các kẹt ra số lúa thóc mà họ đã  đem giấu. Người ta tổ chức những bữa tiệc linh đình và những buổi tiếp  tân dành cho các đại biểu Chính Phủ đã phục vụ cho Đoàn Kết và Hoà Bình.  Người ta ăn, người ta uống, người ta vui đùa. Trông cái cảm giác khoan  khoái chung của mọi người, các vị hôn phu và hôn thê đem biếu cho Quốc  Gia những quà cưới và của hồi môn của họ. Người ta còn thấy cả các ông  già bà cả hy sinh đem vải và quần áo liệm của mình cho tấm bạt  “Protestaire” nữa. Những kẻ nào dám không đem gì đến giúp đều bị hăm doạ  báo thù và phải bị lột hết tài sản.
Số tiền quyên, những quà tặng và đồ vay mượn đều được tập  trung lại. Thợ dệt và thợ mộc bắt tay vào việc, kẻ thì làm tấm bạt che,  người lo làm những giàn trụ, mỗi người thợ dùng màu sắc của nhóm hay  đảng mình, đảng màu đen thì dùng màu đen, đảng màu xanh thì dùng màu  xanh, đảng màu đỏ thì dùng màu đỏ. Tấm bạt che làm xong, giàn trụ được  dựng lên. Người ta đặt tấm bạt che trên các giàn trụ và người ta căng  tấm bạt từ đầu này đến đầu kia trong Nước. Dân chúng ngắm nghía kiệt tác  nầy và la lớn, một cách nồng nhiệt: “Hoan hô tấm bạt Protestaire! Tấm  bạt Protetaire đã thắng những trận mưa vô kỷ luật muốn phá hoại Uy Quyền  Quốc Gia! Sung sướng thay cho những kẻ được thấy Trật Tự vãn hồi và Uy  Quyền được tăng cường trong Đoàn Kết và Hoà Bình!”
Lời cầu nguyện của Chú Khờ linh nghiệm và còn linh nghiệm  hơn nữa là ý muốn của Chúa. Người cầm lấy chìa khoá cửa Trời và quyết  định mở cửa cái kho tàng quí báu của Người, là cả bầu Trời. Chiếc chìa  khoá, quá lâu không ai dùng đến, nay bị rỉ hết. Khi được tra vào ổ khoá  Trời, nó kêu ra một tiếng cót két thật khủng khiếp – đó chính là tiếng  báo trước có bão. Gỉ sét loang ra và làm rối cả Trời. Trời bao phủ mây  đen nghịt : Sấm sét nổ ầm và những hạt mưa nặng hột bắt đầu rơi xuống.
Tấm bạt che, rách toang vì cả thác nước, rơi ra từng  mảnh. Mưa đến được mặt đất và làm đất màu mỡ... Thế là công trình của  dân trong Xứ bị cuốn mất. Chính bởi vì công trình có tính cách tạm bợ:  cái chính yếu không phải là Hành Động, mà là Tư Tưởng hướng dẫn nó. 
Nước chảy tràn trề, nhỏ giọt trên mặt mọi người. Các màu  sắc trên tấm bố bị nhoè, loang vào nhau, màu đen trở thành đỏ, màu đỏ  qua xanh, và màu xanh thì biến thành hoặc đỏ hoặc đen : Cuối cùng người  ta không còn phân biệt được một màu nào lúc ban đầu cả.
Tác giả cuốn sách này đã có dịp chứng minh rằng không có  điều dở nào mà không có cái hay trong đó. Tác giả vẫn luôn luôn giữ quan  niệm đó mà không sợ phải bị chê cười. Thế nhưng trường hợp ngược lại  cũng đúng. Thế gian dưới này chỉ là một, mà trong đó cái Xấu và cái Tốt  lẫn lộn, không khi nào có cái này mà không có cái kia, bởi vì hiệu quả  của chúng giữ quân bình cho nhau. Nước đổ xuống thật nhiều, nó tưới cho  đất và những cánh đồng đem lại mùa màng. Bây giờ có bánh mì để ăn và  nước để uống. Nhưng trong khi dân đói vui mừng, thì bọn đầu cơ buồn bã  nghĩ đến vật giá hạ xuống, và nghĩ đến số hàng tích trữ kể từ đây đã  biến thành vô dụng.
Về phần những Ông Lớn trong Nước, nỗi vui của họ không  phải là không gợn buồn, bọn “Đội nón” buồn, vì nón mũ ướt hết coi mất cả  vẻ chỉnh tề, bọn “Đầu trần” buồn, vì nước thấm lạnh chiếc đầu hói và  hai bên thái dương để trần của họ.
Kẻ thù trong nước vậy là đã bị quật ngã, còn lại kẻ thù đang hăm he ngoài biên giới. Nhưng đây lại là một câu chuyện khác...
Bản dịch Nguyễn Thu Hồng
_________________________
[*]“Jacasse”, từ nguyên nghĩa là người đàn bà hoặc con gái lắm mồm.
-------------
“Tấm bạt” dịch từ bản Pháp ngữ “La bâche” của Rachel và Guy Casaril trong Les Contes de Je´rusalem (Paris: Albin Michel, 1959). Tập truyện tiếng Pháp, theo bài tựa, là  môt tập tuyển những truyện ngắn và những đoản trích văn rời rạc của  Ch.-Y. Agnon do chính các dịch giả người Pháp chọn và sắp xếp. Bản Việt  ngữ từng xuất hiện trên tuần báo Đại Dân Tộc số 3 [1] ra ngày 11.10.1969 ở Saigon dưới cái tên “ăn khách” hơn, “Tấm  bố quái dị” – chắc hẳn tên do tuần báo ấy đặt – một năm trước năm tác  giả qua đời. Trong tiểu sử tóm lược từng được in cùng với bản dịch trước  đây, phần giới thiệu truyện đã được “cập nhật chấm phá”...

Nhân đây người dịch xin vô cùng cám ơn chị  T.T. đã giúp đưa một bản dịch ra khỏi trạng thái “bốc hơi” của nó, sau  gần nửa thế kỷ. Độc giả muốn tìm hiểu thêm về Chmuel-Yossif Agnon xin  đọc "Đi tìm một ngôn ngữ đã mất: AGNON GIỮA TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI" của Diễm Châu trên Tiền Vệ.
0 comments:
Post a Comment